Theo ông Mauro Gasparotti, Việt Nam đã làm rất tốt công tác phòng chống dịch và bây giờ là lúc đất nước đi vào giai đoạn phục hồi sau đại dịch. Nhu cầu du lịch trong nước sẽ là thị trường chính. Tuy nhiên, các khách sạn và resort sẽ cần điều chỉnh lại chính sách giá cũng như các ưu đãi để đón đầu và đáp ứng nhu cầu của nhóm khách này.
Việt Nam sẽ trải qua quá trình tương tự như Trung Quốc sau khi đại dịch được kìm hãm, theo đó thị trường Trung Quốc chỉ mất khoảng sáu tuần để công suất trở lại mức 30% sau khi công suất bị giảm mạnh vào giai đoạn trước đó và điều này phụ thuộc hoàn toàn vào khách du lịch nội địa, đặc biệt là nhóm du khách trẻ. Trong số tất cả các phân khúc, khách sạn ngân sách thấp ghi nhận mức công suất tăng nhanh hơn so với những khách sạn có định vị cao hơn.
“Chủ sở hữu và các nhà điều hành khách sạn sẽ đối mặt với giai đoạn cạnh tranh khốc liệt trong thời gian tới, đòi hỏi sự sáng tạo và đổi mới để quản lý và tạo ra nguồn doanh thu mới. Các dịch vụ lưu trú và nhà hàng cần phát triển các chiến lược tiếp thị, quảng bá sáng tạo và ý nghĩa hơn trong khi các tổ chức tài chính và chủ sở hữu bất động sản cần tích cực làm việc với chủ đầu tư để tìm ra giải pháp cùng có lợi nhằm góp phần xây dựng và hỗ trợ quá trình phục hồi”, ông Mauro Gasparotti khẳng định.
Ông Mauro Gasparotti cũng đánh giá thị trường du lịch trong nước sẽ quay trở lại trong giai đoạn đầu tiên của sự phục hồi. Sau quyết định về cách ly xã hội, phần lớn các khách sạn và khu nghỉ dưỡng ở Việt Nam đã có kế hoạch mở cửa trở lại vào tháng 5 với các chương trình khuyến mãi để thu hút khách du lịch trong nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhiều người còn e ngại việc di chuyển bằng máy bay, các điểm đến có thể di chuyển bằng xe như Vũng Tàu, Hồ Tràm, Mũi Né, Hạ Long, Đà Lạt và Sapa sẽ là lựa chọn hàng đầu trong ngắn hạn.
Giai đoạn phục hồi thứ hai sẽ là sự trở lại của du khách nước ngoài khi lệnh cấm các chuyến bay được dỡ bỏ và các quốc gia kết nối được xem là an toàn. Trung Quốc và Hàn Quốc có thể sẽ là những quốc gia được ưu tiên mở lại trước do đây là những thị trường khách quốc tế chính của Việt Nam đồng thời cũng là những quốc gia có số ca nhiễm giảm đáng kể.
Các điểm đến như Bali và Thái Lan cũng đang có ý định chào đón du khách Trung Quốc trở lại và nếu thành công, Việt Nam có thể cân nhắc việc áp dụng các chính sách tương tự. Việt Nam đã nổi tiếng toàn cầu về mức độ an toàn thông qua các biện pháp phòng chống COVID-19 thành công và đây được xem là đòn bẩy giúp thị trường khách quốc tế sớm trở lại.
Giai đoạn cuối cùng là khi đại dịch được kiểm soát hoàn toàn và ngành du lịch toàn cầu phục hồi trở lại về mức trước khi áp dụng các chính sách hạn chế du lịch do đại dịch COVID-19. Khi các hạn chế du lịch được dỡ bỏ hoàn toàn, chúng ta sẽ thấy hai tác động chính: sự thay đổi trong hành vi của khách du lịch và các tác động kéo dài của suy thoái kinh tế toàn cầu, cả hai yếu tố sẽ cần tiếp tục được chú trọng trong thời gian tới.
Sự phục hồi ban đầu được dự kiến sẽ theo mô hình chữ V, điều này vốn phổ biến trong ngành Khách sạn và Du lịch, và đã diễn ra ở Việt Nam trước đó: Từ tháng 6/2014 đến tháng 6/2015 khách Trung Quốc và Nga đột ngột giảm nhưng cả hai đều nhanh chóng phục hồi. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tác động kinh tế toàn cầu và diễn biến khó lường trước của dịch COVID-19, chúng tôi dự đoán việc khôi phục hoàn toàn có thể sẽ diễn ra vào năm 2021.
“Chúng tôi vẫn luôn có một cái nhìn tích cực về tương lai của ngành khách sạn ở Việt Nam và trên thực tế khi thấy đất nước cùng đoàn kết vượt qua đại dịch, quan điểm đó càng trở nên vững chắc hơn. Đặc biệt khi xét tới lượng lớn khách du lịch nội địa và du lịch nước ngoài cùng với khoảng cách lân cận đến những các quốc gia có lượng khách xuất ngoại lớn, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để kì vọng vào sự phục hồi”, ông Mauro Gasparotti cho biết.
Bên cạnh đó, Việt Nam với hình ảnh là một điểm đến an toàn, chi phí du lịch phù hợp cùng vẻ đẹp thiên nhiên phong phú đều là những lợi thế lớn của Việt Nam sau đại dịch và càng khẳng định niềm tin của chúng tôi về sự phục hồi trong thời gian sớm nhất.
Lan Nhi
Cafef.vn